Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015


  
HỘI THÁNH LIÊN HỮU CƠ ĐỐC VIỆT NAM
   Tên gọi của mỗi tôn giáo đều mang một ý nghĩa riêng, có khi nó liên quan đến một địa danh,  một nhân vật sáng lập, một điển tích lịch sử hay mỗi xu hướng giáo lý, thần học. Cũng có khi tên gọi của một tôn giáo xác định mối quan hệ mang tính lịch sử. Hội Thánh Liên Hữu Cơ Đốc Việt Nam (christian fellowship church of Viet Nam)mang ý nghĩa là liên kết, tập hợp tất cả những người tin nhận chúa Kitô ở Việt Nam. Đây là một giáo phái tách ra từ Tin Lành. Sau đây, tôi xin trình này vài nét về Hội Thánh Liên Hữu Cơ Đốc Việt Nam.
  Nếu xét về mặt lịch sử thì Hội thánh Liên hữu Cơ Đốc Việt Nam đã được thành lập từ năm 1963, trên cơ sở tách ra từ Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) do mục sư Hoàng Kim Thanh làm Hội Trưởng và kiêm sáng lập viên. Nhưng Hội Thánh chính thức hoạt dộng công khai năm 1989. Đến năm 1989, mục sư Đinh Thiên Tứ  thay thế mục sư Hoàng Kim Thanh quản nhiệm Hội thánh, đương nhiệm cho đến ngày nay. Tháng 10/2007, Hội Thánh được Ban Tôn giáo Chính phủ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Hội Thánh đã trải qua ba kỳ Đại Hội: Lần 1 vào năm 2009, lần 2 vào năm 2011, lần 3 vào năm 2013. Ngày 14.7.2010, Hội Thánh Liên Hữu Cơ Đốc Việt Nam số 14/6B ấp Đông, Xã Thới Tam Thôn, Huyện  Hóc Môn đã tổ chức lễ đón nhận Quyết Định công nhận  là tổ chức tôn giáo.Hội Thánh Liên Hữu Cơ đốc Việt Nam, là tổ chức Tin Lành thứ 7 được Ban Tôn giáo Chính Phủ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo[1].
   Giáo Hiệu của Hội Thánh gồm 3 biểu tượng: Thập tự giá chỉ sự cứu rỗi trong Chúa Jêsus là trọng tâm tin kính và cũng là sứ mạng trọng đại mà giáo hội phải rao truyền, Kinh Thánh là lời Đức Chúa Trời là nền tảng tín lý, Chim Bồ Câu biểu tượng của Đức Thánh Linh là đấng lãnh đạo thiên thượng và là nguồn quyền năng siêu việt.
  Hội Thánh hoạt động theo tôn chỉ: Trung tín thờ phượng Đức Chúa Trời ba ngôi theo đúng mẫu mực kinh thánh và trung thành với tổ quốc Việt Nam. Đây là một đặc điểm mới, thể hiện sự hoà nhập của của giáo lý Hội Thánh với dân tộc Việt Nam[2]
   Mục đích của Hội Thánh là:Đồng tâm phụng vụ đức chúa trời ,gây dựng hỗ tương đời sống tín hữu ,hợp tác truyền bá chân lý cứu rỗi và góp phần phục vụ dân tộc, nhất là trong lĩnh vực văn hoá và xã hội .Đường hướng: Trung thành với chân lý kinh thánh, đồng hành cùng dân tộc[3].
   Hội thánh đặt nên tảng tín lý trên kinh thánh Cựu Ước và Tân Ước gồm 66 quyển được cô đọng trong quyển giáo lý căn bản và được tóm tắt thành 13 điều: Đức chúa trời, kinh thánh, con người, tội lỗi, chúa cứu thế, sự cứu rỗi, đức thánh linh, sự thờ phượng, sự cầu nguyện, truyền giáo, hội thánh và các thánh lễ, quản lý tiền bạc, thế giới tương lai. Trong Tin Lành có năm tín lý cơ bản: Duy Kinh Thánh, Duy Chúa Kitô, Duy Ân Điển, Duy Đức Tin, Duy Thiên Chúa được tôn vinh, từ năm tín lý này Hội Thánh đã mở rộng ra thành 13 điều.
  Hội Thánh liên Hữu Cơ Đốc Việt Nam có hai Thánh Lễ chính đó là Lễ Báp Têm và Lễ Tiệc Thánh. Đây là điểm giống giữa Hội Thánh với Tin Lành. Lễ Báp Têm: Do các mục sư hoặc do những người hầu việc chúa được giáo hội chứng nhận, cử hành cho những người thực sự dứt khoát với hình tượng, tin nhận chúa Jêsus. Người Báp Têm phải dầm mình trong nước, với người hấp hối hoặc trọng bệnh có thể Báp Têm bằng hình thức xối nước qua trán. Ý nghĩa của Lễ Báp Têm là nghi lễ bên ngoài tượng trưng cho sự thay đổi bên trong: Trầm mình trong nước chỉ về sự đồng chết và đồng chôn với chúa đời sống cũ đầy tội lỗi. Ra khỏi nước tượng trưng cho sự đồng sống lại với chúa đời sống mới . Lễ Tiệc Thánh: Do các mục sư và người hầu việc của Chúa cử hành. Các tín đồ đã Báp Têm chung dự bánh và nước nho tối thiểu mỗi tháng một lần. Ý nghĩa của Lễ Tiệc Thánh. Hội thánh đồng tâm chung dự bánh và nước nho để: Kỉ niệm thân chúa bể ra, huyết chúa đổ ra vì tội chúng ta.  Để chỉ sự hiệp nhất với chúa. Để chỉ môn đồ cùng hiệp nhất trong chúa. Để khích lệ môn đồ cùng chờ mong ngày cùng chúa chung dự đại tiệc vinh quang.
   Ngoài hai thánh lễ chính, Hội Thánh còn có một số Thánh Lễ khác như: Lễ tấn phong, lễ trao tay hữu, lễ dâng con trẻ, lễ hôn phối, lễ xức dầu cầu nguyện cho người bệnh,lễ an táng.
  Lễ tấn phong  do thường vụ và hội đồng trưởng nhiệm tổng hội cử hành lễ tấn phong cho Mục sư. Tuy rất chú trọng đến kiến thức Thần Học, nhưng để được xét tấn phong Mục sư còn phải là người Tin Kính, Đạo Đức, Hiệu Quả và phải hơn sáu năm vừa học vừa hầu việc Chúa.
  Lễ trao tay hữu do các đại diện của thường vụ và hội đồng trưởng nhiệm tổng hội cử hành để công nhận chức vụ Mục sư nhiệm chức và chức vụ người hầu việc Chúa.
  Lễ dâng con trẻ: Con trẻ được cha mẹ đưa đến trước Hội Thánh và được cả Hội Thánh cầu nguyện. Mục sư, người hầu việc chúa đặt tay cầu nguyện theo như gương mẫu của chúa Jêsus.
 Lễ hôn phối do các Mục sư cử hành cho tín hữu đã Báp Têm và tin kính tốt. Trường hợp đặc biệt trưởng nhiệm giáo hạt có thể uỷ nhiệm cho người hầu việc Chúa cử hành.
  Lễ xức dầu cầu nguyện cho người bệnh khi có một tín hữu lâm bệnh, người thân của tín hữu mời các Mục sư, người hâu việc Chúa, chấp sự và các tín hữu được ơn đến thăm và xức dầu cầu nguyện xin chúa chữa lành.
  Lễ an táng khi một tín hữu qua đời, Mục sư hay người hầu việc Chúa, hiệp với hội đồng chấp sự tổ chức lễ an táng một cách long trọng để quy vinh hiển danh Chúa, an ủi tang gia, giúp mọi người hiểu biết các phước hạnh của người chết trong Chúa.
   Hội Thánh có các ngày truyền thống: Ngày phụ nữ liên hữu, ngày thành lập ban phụ nữ của hội thánh địa phương , ngày thiếu nhi Liên Hữu và Thánh kinh hè , ngày thanh thiếu niên và họp bạn bồi linh .
 Ngoài ra Hội Thánh còn có các ngày lễ như: Lễ kỉ niệm Chúa Giáng Sinh được tổ chức trong “ Mùa Giáng Sinh”, lễ kỉ niệm Chúa Phục Sinh tổ chức vào chủ nhật, trăng tròn sau Xuân Phân,  lễ kỉ niệm Chúa thăng thiên, lễ kỉ niệm Đức Thánh Linh giáng lâm( Lễ Ngũ Tuần) tổ chức sau lễ kỉ niệm chú Thăng Thiên 10 ngày, lễ mừng xuân mới tổ chức theo tết dân tộc, Mục đích cầu nguyện cho dân tộc, chung hoà với dân tộc trong các ngày lễ trọng thể của dân tộc hoặc của địa phương, lễ tạ ơn để cảm tạ Chúa nhân ngày thành lập Hội Thánh Liên Hữu Cơ Đốc Việt Nam, các lễ kỉ niệm các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ những người đã quá cố. Đại gia đình có dịp nhắc lại những kỷ niệm đẹp, những gương lành của Đấng sinh thành. Tuy nhiên, không thỉnh mời người quá cố về ăn cổ hay hưởng hơi (hương), lễ hiếu kính cha mẹ tổ chức vào chủ nhật thứ nhì của tháng năm hàng năm.Đặc điểm này giống với bên công giáo.
  Hệ thống tổ chức:  Gồm có Tổng Hội và Hội Thánh địa phương .Hội Thánh Liên Hữu Cơ Đốc Việt Nam không có Mẫu hội, không khuôn rập theo cơ cấu tổ chức Tây phương. Quyền tối cao của tổ chức thuộc Đại hội, không thuộc một lãnh tụ, không sùng thượng cá nhân. Tuy dân chủ, nhưng không thái quá: Không nhiều tranh cãi nơi tôn nghiêm và không trao quyền “thuê-mời Mục sư” cho các tín hữu nhiều ảnh hưởng (có thể do có nhiều tiền). Mỗi Hội Thánh địa phương được lãnh đạo bởi các Mục sư. Người lãnh đạo quan trọng nhất không có khoảng cách lớn với những bạn đồng môn.
  Số lượng tín đồ và phân bố: Hiện ở Việt Nam có khoảng 30.000 tín hữu Liên hữu Cơ đốc Việt Nam đang sinh hoạt ổn định tại 50 tỉnh, thành phố[4]. Phân bố ở vùng núi phía Bắc như Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang, Quảng Ninh, Cao Bằng, phân bố ở Nam Bộ. có số lượng tín hữu là người dân tộc thiểu số đông nhất Việt Nam với hơn 7 nhóm sắc tộc khác nhau như: H’mông, H’re, S’tiêng, Ê-đê, Bana, Giơ-rai, K’Ho, Chăm…Mọi người không phân biệt giai cấp. Chủng tộc, hoặc đã lìa bỏ hình tượng, mê tín dị đoan, tin nhận chúa Jêsus, đều là tín hữu của Hội Thánh Liên Hữu Cơ Đốc Việt Nam.
   Như vậy, trong Hội Thánh Liên Hữu Cơ Đốc Việt Nam có một số đặc điểm khác với một số tổ chức tôn giáo, giáo phái khác như: Tôn chỉ của Hội Thánh đó là trung thành với  tổ quốc Việt Nam, có một số ngày lễ như mừng năm mới, lễ hiếu kính cha mẹ. Mà ở các tổ chức tôn giáo khác không có. Điều này cho thấy có sự hoà nhập của của giáo lý hội thánh với văn hoá truyền thống Việt Nam. Mặt khác, Hội thánh còn có một số ngày lễ giống với bên Công Giáo, có những bí tích giống với Tin Lành.
   Trong thời gian qua, Đảng và Nhà Nước Việt Nam luôn chăm lo đến đời sống mọi mặt của tín đồ Hội Thánh Liên Hữu Cơ Đốc Việt Nam từ vật chất đến tinh thần, cũng như tạo điều kiện cho tín đồ được tự do tín ngưỡng và hành đạo thuận tiện. Vì thế các tín đồ của Hội Thánh đang tham gia tích cực vào các phong trào phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa phương, do Mặt trận, các đoàn thể phát động. Thực hiện tốt đường hướng của Hội Thánh: Trung thành với chân lý kinh thánh, đồng hành cùng dân tộc.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.                 Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Đức Lữ (Chủ biên). Nxb Tôn giáo Hà Nội,2007.
2.                 Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo của Việt Nam, 2004
Trang Web
4.                 http://lienhuucodoc.org/hcdl.html. Cập nhật ngày 21/12/2013
5.                  http://lienhuucodoc.org/nt1.html. Cập nhật ngày 21/12/2013
6.                 http://vietinfo.eu/cuoc-song-va-tam-linh/dai-hoi-hoi-thanh-lien-huu-co-doc-viet-nam.html. Cập nhật ngày 23/12/2013
7.                 http://www.baomoi.com/Dai-hoi-lan-II-Hoi-thanh-Lien-huu-Co-doc-Viet-Nam/122/7276794.epi. Cập nhật ngày 23/12/2013.
8.                 http://vov.vn/Xa-hoi/Dai-hoi-Hoi-Thanh-Lien-huu-Co-doc-Viet-Nam/122916.vov. cập nhật ngày 26/12/2013.


Một số hình ảnh

http://lienhuucodoc.org/images/index_01.gif
Nội dung: Giáo hiệu của Hội Thánh Liên Hữu Cơ Đốc Việt Nam
(Nguồn: http://lienhuucodoc.org/hcdl.html. Cập nhật ngày 2/1/2014)
Nội dung: Toàn cảnh nhà thờ Hội Thánh Liên Hữu Cơ Đốc Việt Nam ở Hóc Môn, tphcm.

Nội dung: Quang cảnh buổi lễ diễn ra tại cơ sở của Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam
Nội dung: Quang cảnh buổi lễ diễn ra tại cơ sở của Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam














 



                      ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
    ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
    KHOA TRIẾT HỌC

                                     ----&˜----
Môn : TÂM LÍ HỌC TÔN GIÁO
    Đề tài: BÀN VỀ TOTEM THEO QUAN ĐIỂM SIGMUND FREUD
GVHD:                    TS. DƯƠNG NGỌC DŨNG
SVTH:                      TƯỞNG DIỄM THÚY
MSSV:                      1256070070
LỚP:                        TÔN GIÁO 3










MỤC LỤC

I.                       Totem là gì?
II.                    Cơ sở lí thuyết giải thích quá trình hình thành totem và tabu
2.1.              “ Phức cảm Ơdip”
2.2.              . Bản năng bầy đàn và tâm lí đám đông
III.                 Vai trò của totem
IV.                Kết luận




MỞ ĐẦU
Sigmund Freud- người đầu tiên đặt nền móng cho ngành phân tâm học với các cuộc nghiên cứu tâm thần một cách tỉ mỉ dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm hoặc dựa trên các cứ liệu thu thập ông đã đưa ra nhiều quan điểm quan trọng đóng làm tiền đề cho nhiều nhà nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả tôn giáo.  Về mảng tôn giáo ông nghiên cứu phân tích tôn giáo dựa trên các cảm xúc, tâm lí học người và đi sâu mổ xẻ vấn đề này truy tìm nguyên nhân dẫn đến việc hình thành tôn giáo. Totem và tabu là hai dạng mà nhà nghiên cứu này đặc biệt quan tâm. Nó là một hình thái tôn giáo sơ khai của người nguyên thủy, mặc dù hiện nay totem giáo đã không còn xuất hiện nhiều , nó chỉ còn ở một số nơi còn sơ khai nhất nhưng với việc dựa trên các tài liệu quan điểm các nhà nghiên cứu và một vài khảo sát về các tộc người còn nguyên thủy nhất lúc bấy giờ còn thờ totem ông đã cho người đọc biết một cách sơ lược nhất về totem, ngược lại với totem giáo là tuba( cấm kị) thì đến hiện nay vẫn còn tồn tại, nó được ông nghiên cứu kĩ và sâu hơn so với totem giáo, qua việc tìm hiểu này ông đã rút ra được những nguyên nhân tận sâu trong tâm lí con người làm hình thành nên tôn giáo này. Vậy nguyên nhân đó ở đâu? Và tại sao hiện nay totem giáo lại dần mất đi sẽ là câu hỏi được đặt ra và tìm ra câu trả lời khi nghiên cứu và bàn lại quan điểm totem và tabu của Freu đồng thời còn dựa trên một số quan điểm của các nhà tôn giáo học và tâm lí học để so sánh tìm ra điểm tương đồng và điểm khác biệt để có cái nhìn cụ thể nhất để tìm ra câu trả lời khách quan nhất có thể.


I.           Tôtem  là gì?
Totem có nguồn gốc từ ototeman của dân tộc Ojibwa có nghĩa là “ họ hàng anh chị em của cùng một người”
Totemism là hệ thống tin tưởng trong đó con người được cho là có quan hệ họ hàng, hoặc một quan hệ bí ẩn với một hữu thể - tinh thần, chẳng hạn như là động vật hoặc thực vật. Thực thể, casc totem, được cho là tương tác với một nhóm người có liên hệ họ hàng, hoặc một cá nhân, và totem được dùng như huy hiệu hoặc tượng của họ. Totem được thể hiện dưới những hình thức khác nhau và những loại trong những nội dung khác nhau và thường được tìm thấy trong số những quần thể dân chúng có nền kinh tế truyền thống dựa vào săn bắn và hái lượm, hoặc nhấn mạnh trên chăn nuôi gia súc. Ngoài hiện tượng totem tập thể còn có totem cá nhân.
II.        Cơ sở lí thuyết giải thích quá trình hình thành totem
2.1.                    “ Phức cảm Ơdip”
Lúc đầu quan hệ của trẻ thơ với loài vật có chung nhiều với con người nguyên thủy. Đứa trẻ còn chưa cho thấy bất kỳ dấu vết của tự hào nào vốn sau đó chuyển con người văn minh trưởng thành đến lập một đường phân chia rõ ràng giữa bản chất của chính mình và của tất cả những loài vật khác. Đứa trẻ không do dự gán cho loài vật sự bình đẳng hoàn toàn, đứa bé có thể cảm thấy chính nó có liên hệ gần gũi với con vật hơn là với người lơn chắc chắn bí ẩn, trong sự tự do mà nó nhận biết những nhu cầu của nó.
Freu đã có một cuộc nghiên cứu như sau để cho ra đời lí thuyết “ phức cảm Ơdip” : “ Phân tích về Phobia của một bé trai năm tuôi mà người cha của người bệnh đã trao em bé này cho tôi. Đó là một sự sợ hãi loài ngựa đã là kết quả khiến em bé từ chối không chịu đi trên đường phố. Em bày tỏ sự e ngại của em rằng con ngựa sẽ đi vào phòng và cắn em. Nó đã chứng tỏ rằng điều này đã có nghĩa là sự trừng phạt với ước muốn của em ràng con ngựa nên bị ngã xuống ( chết). Sau những đảm bảo mà đứa bé trút được gánh sợ hãi với cha mình, nó đã chứng minh rằng em đang đấu tranh chống lại mong muốn có nội dung là sự vắng mặt ( ra đi hoặc chết) của người cha. Em bé chỉ nghỉ đơn giản rằng em cảm thấy người cha là đối thủ của mình với những biệt đãi thiên vị của mẹ, vốn là người mà những ao ước tình dục bắt đầu nảy  nở của em đã được những linh cảm đen tối nhắm tới. Thế nên, em bé đã có thái độ tiêu biểu của đứa trẻ con phái nam với  cha mẹ của nó mà chúng ta gọi là “mặc cảm Ơdip” trong đó đã cho thấy sự phức tạp trung ương của những chứng nhiễu loạn nơ-rô nói chung.” Và Freu đã kết luận : “ nói chung, trong quá trình bé trai cạnh tranh tình cảm yêu mến của mẹ đối với cha boojcj lộ ra hết không lưu lại chút nào là không thể được, bởi vì trước hết em phải khắc phục những tình cảm ngưỡng mộ và thân cận được xây dựng từ bao lâu nay đối với cha. Trong sự mâu thuẫn của loại tình cảm này, để giảm nhẹ và khắc phục xung đột nội tâm, thế là em bắt đầu tìm kiếm một “ vật thay thế” người cha để mà trút ra  nỗi sợ hãi và thù địch của mình. Song, tác dụng của sự thay thế này không làm tiêu tan được xung đột tâm lí, bởi vì nó không phân biệt rạch ròi được hai loại tình cảm yêu và ghét. Trái lại, loại xung đột này thường được trút lên những vật thay thế” . với tư tưởng và suy nghĩ của những người nguyên thủy thời xưa mà cụ thể là loài vượn người, hiểu biết họ hoàn toàn giống như một đứa trẻ thơ, họ chưa có sự hiểu biết sâu rộng về thế giới mà mọi thứ xung quanh họ như là một ẩn số, tương tự như một đứa trẻ. Cuộc sống của họ là cuộc sống quần cư, dựa trên hoạt động săn bắt và hái lượm, trong quần cư cùng sinh sống đó có một người đứng đầu , người đứng đầu này có mọi quyền lực và sở hữu mọi thứ trong bàn đàn ngay cả các phụ nữ. Người đứng đầu đó có sức mạnh, sự thông minh và bản lĩnh dẫn đầu, các thành viên nam còn lại chỉ được phép nghe theo mệnh lệnh và nếu trái lại họ sẽ bị trừng phạt, đối với những thành viên nam ngoài sự kính sợ, còn có sự căm ghét nhưng trạng thái căm ghét ẩn giấu bên trong họ và không bọc lộ ra bên ngoài. Các thành viên nam trong bầy đàn lớn lên tranh giành ngôi vị thủ lãnh, theo quy luật kẻ mạnh làm thủ lãnh, cuộc tranh chấp diễn ra thủ lãnh đương nhiên nếu thua trong cuộc chiến hoặc bị trục xuất khỏi bầy đàn, hoặc bị giết.
Đối tượng của totem đa phần là các loài động vật. Freu chỉ ra rằng cách nhìn của trẻ thơ đối với động vật cũng tương tự như người nguyên thủy. Trong quan hệ gia đình đứa trẻ (bé trai) luôn có xu hướng gắn tình cảm với người mẹ, một thứ tình cảm mờ ảo và nó sợ chính cha nó sẽ cướp lấy mẹ nó, nó chỉ muốn được chiếm hữu riêng, bởi như vừa đề cập ở trên giai đoạn đầu tiên sơ khai nhất của con người là người vượn,  cuộc sống bầy đàn và người thủ lãnh có thể nói tương tự như vai trò của một gia đình và vị ví trụ cột của người cha trong gia đình đó.  Đứa trẻ yêu thương , kính sợ và cần được cha che chở , nếu dựa trên quan điểm của Freu ta sẽ có cách nói như sau rằng đứa bé muốn chiếm riêng người mẹ cho nó, nguyên nhân mà nó muốn chiếm hữu riêng người mẹ chính là một thứ tình dục mờ ảo của trẻ thơ thứ tình cảm mà chính đứa trẻ chưa có sự phân định đâu là tình yêu thương đơn thuần và đâu là dựa trên quan hệ khác giới. Một giả thuyết đưa ra rằng để chiếm được người mẹ các đứa con trai hợp sức lại chống lại cha nó, khi cuối cùng nó giết chết cha và chiếm đoạt được mẹ, nó rơi vào tâm lí hối hận trước những việc đã làm nó tạo dựng nên một hình ảnh khác về người cha bằng cách tưởng nhớ thờ cúng người cha của nó, hoặc lẽ nó tự an ủi rằng cha nó không chết đi mà ông ấy đi sang một nơi khác- thiên đàng và hưởng hạnh phúc trên đó. Đây là một trong những cơ sở đầu tiên hình thành nên tôn giáo.  Qua những phân tích  này, Freu nhấn mạnh, sự thực nói trên có liên hệ mật thiết đến quan điểm totem của người nguyên thủy. Chủ yếu biểu hiện ở hai điểm: đầu tiên là thừa nhận mình có điểm tương đồng hoặc gần gũi với động vật từ thừa nhận trên sản sinh ra hai loại tình cảm song song là ngưỡng mộ và sợ hãi. Thứ hai là liên hệ này chí ít chứng minh, động vật trong quan niệm totem của người nguyên thủy là vật thay thế của hình tượng người cha.
Tuy nhiên, sự chuyển chỗ không có thể làm giảm nhẹ xung đột bằng cách đưa về một sự phân chia êm thấm giữa những cảm giác thương mến âu yếm và ác cảm thù địch. Ngược lại xung đột đã được tiếp tục trong sự dẫn chiếu về đối tượng mà sự chuyển đổi đã được thực hiện và cũng lan truyền tính mâu thuẫn đến với nó. Không ngờ gì chú bé John đã không chỉ sợ hãi  nhưng kính trọng và chú ý với loài ngựa. Ngay sau khi sự sợ hãi của mình đã được tiết chế nhẹ đi, em đồng hóa chính mình với con vật đáng sợ, em nhảy vòng quanh như một con ngựa, và bây giờ nó là em là người đánh người cha. Trong một giai đoạn khác em bé đã không đắn đo để đồng hóa cha mẹ mình với những loài thú vật lớn khác.
Như vậy có thể thấy rằng đã có sự thay thế người cha với động vật totem trong công thức phái nam của hệ tư tưởng totem.

2.2 . Bản năng bầy đàn và tâm lí đám đông
Một đám đông người nguyên thủy với một người đàn ông đầy uy lực giữa đám người bình đẳng với nhau, một bức tranh có sẵn trong tưởng tượng. tâm lí của đám đông đó biến mất ý thức cá nhân, hướng ý nghĩ và tình camt theo chiều duy nhất, lĩnh vực tình cảm và vô thức trỗi dậy, khuynh hướng muốn thực hiện ngay những ý định vừa xuất hiện- tương ứng với sự thoái hóa về đời sống tinh thần sơ khai có thể gán cho bầy đàn nguyên thủy. Ý chí của từng cá nhân quá yếu, làm cho cá nhân đó không dám hành động. chỉ có những xung lực tập thể là được thực hiện, chỉ tồn tại ý chí tập thể.  Và ngay từ thời khởi thủy đã có hai dạng tâm lí :tâm lí của các thành viên của đám đông và tâm lí của người cha, người chỉ huy. Các cá nhân tạo thành đám đông bị ràng buộc nhưng người cha của bầy nguyên thủy thì tự do. Hoạt động trí tuệ mạnh mẽ và độc lập ngay cả khi một mình. Nhưng khi đám đông đó hợp sức lại thì ý chí và hành đồng cá nhân sẽ mang sức ảnh hưởng mạnh mẽ,  như vấn đề đã nói phần trên kẻ lãnh đạo luôn có nhiều lợi thế, có mọi quyền lực và chiếm trọn các phụ nữ trong bầy đàn, với nhu cầu tâm sinh lí, những kẻ yếu hơn hợp sức lại chống lại ý kiến cá nhân bằng hành động tập thể, họ giết người đầu đàn để đáp ứng nhu cầu cho mình, song khi nhu cầu được thỏa mãn họ sẽ rơi vào cảm giác thống hối, họ tìm cách tự an ủi bằng cách tôn thờ người đó dựa, chịu lãnh sự bảo hộ của người đó thông qua mặt tinh thần.  Để như một biểu tượng hỗ trợ tinh thần và cho họ có sức mạnh khi đứng trước đám đông. Bằng việc dựng lên những hình ảnh đầy huyền bí để bào vệ và hỗ trợ mình, họ lấy hình ảnh huyền bí đó đề thuyết phục niềm tin đám đông , theo đám đông không hề suy nghĩ , họ tiếp nhận hoặc vứt bỏ các ý tưởng một cách nhanh chống, không dung thứ tranh luận và mâu thuẫn. Đám đông bị  tê liệt lý trí bởi những tác động vào nó và sau đó chúng làm cho nó chỉ muốn nhanh chống chuyển qua hành động. Đám đông tôn sùng một đấng được cho là cao cả, kiếp sợ trước quyền lực bên trên, tuân thủ một cách mù quán mệnh lệnh . Chính sự sợ hãi, tôn sùng và tuân giữ mệnh lệnh đã làm cho mô hình totem giáo được được duy trì cho đến nay. Bởi ở tâm lí đám đông ta còn thấy xuất hiện tính dễ bị tác động và tính nhẹ dạ của đám đông, với đặc tính dễ bị tác động tính chất này lây lan rất mạnh ở mọi chỗ có đông người tụ tập vì cơ sở đó mà totem giáo được tạo thành ở nhiều nơi và còn xuất hiện đến bây giờ ở một số nơi.
III.    Vai trò của totem
Ngoài vai trò an ủi, nâng đỡ sức mạnh cho con người totem còn Totem giúp đỡ trongtrường hợp của đau ốm, và cho bộ lạc những điềm báo trước vànhững cảnh cáo đề phòng. Sự xuất hiện của động vật totem gần một căn nhà đã thường được coi như một thông báo về cái chết.  Totemđã đến để lấy bà con của nó.
Totem tạo nên một sự ràng buộc đối với các thành viên, tạo nên những trật tự cơ bản nhất thuở ban đầu như . Đồng thời cũng xác định sự xếp đặt bộ lạc thông qua tên gọi các con vật để phân biệt giữa các bộ lạc.
Sự sùng kính tôn thờ con vật tự nó thể hiện thái độ đối với con vật totem hầu như ngoài những nghi lễ và lễ hội đặc biệt. Totem làm con người tăng cường sức mạnh thông qua việc làm bắt chước con vật đó hoặc ăn thịt nó để có sực mạnh giống nó. Dựa trên nghiên cứu của Smith, Freu đã vận dụng tâm lí học đã giải thích  “ bữa ăn totem”.  Cụ thể theo tài liêu Smith thì bữa ăn totem bao gồm các hoạt động :  thực hiện một số nghi thức  với sự có mặt của mọi thành viên trong bộ lạc để tiến hành nghi thức giết vật totem, thứ hai chia nhau ăn thịt động vật totem có ý nghĩa rằng toàn thể thành viên bộ lạc qua đó mà có được tính thần thánh của đối tuongj totem, tăng thêm cái cảm giác mình giống như đối tượng totem, thứ ba nghi thức biểu thị sự thương nhớ là có tính cưỡng chế, phản ánh một loại tâm lí sợ hãi- có thể bị báo thù cho nên mục đích của nó là giải thoát khỏi trách nhiệm tội lỗi là đã giết động vật totem, cuối cùng , lễ mừng cuồng nhiệt thì biểu hiệ một loại cho phép bản năng là đem hành vi hung bạo trái với điều cấm kỵ hợp pháp hóa (bởi giết con vật totem là một điều cấm kị), thần thánh hóa, cho nên nói bạo hành là bản chất của lễ mừng, sự cuống nhiệt bộc lộ “ khoái cảm sau khi phá bỏ được điều cấm kị”.
Như vậy có thể thấy rằng totem có vai trò quan trọng về mặt tinh thần của con người là một mảng tạo nên sức mạnh tinh thần cho con người, thông qua các hoạt động nghi lễ và cúng bái nó tạo cho con người những trạng thái tâm lí cụ thể... song đa phần mang tính tích cực.