ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
----&----
Môn : TÂM LÍ HỌC TÔN GIÁO
Đề tài: BÀN
VỀ TOTEM THEO QUAN ĐIỂM SIGMUND FREUD
GVHD: TS. DƯƠNG NGỌC DŨNG
SVTH: TƯỞNG DIỄM THÚY
MSSV: 1256070070
LỚP: TÔN GIÁO 3
MỤC LỤC
I.
Totem là gì?
II.
Cơ sở lí thuyết giải thích quá trình hình thành
totem và tabu
2.1.
“ Phức cảm Ơdip”
2.2.
. Bản năng bầy đàn và tâm lí đám đông
III.
Vai trò của totem
IV.
Kết luận
MỞ ĐẦU
Sigmund Freud- người đầu tiên đặt
nền móng cho ngành phân tâm học với các cuộc nghiên cứu tâm thần một cách tỉ mỉ
dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm hoặc dựa trên các cứ liệu thu thập ông đã
đưa ra nhiều quan điểm quan trọng đóng làm tiền đề cho nhiều nhà nghiên cứu
trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả tôn giáo.
Về mảng tôn giáo ông nghiên cứu phân tích tôn giáo dựa trên các cảm xúc,
tâm lí học người và đi sâu mổ xẻ vấn đề này truy tìm nguyên nhân dẫn đến việc
hình thành tôn giáo. Totem và tabu là hai dạng mà nhà nghiên cứu này đặc biệt
quan tâm. Nó là một hình thái tôn giáo sơ khai của người nguyên thủy, mặc dù hiện
nay totem giáo đã không còn xuất hiện nhiều , nó chỉ còn ở một số nơi còn sơ
khai nhất nhưng với việc dựa trên các tài liệu quan điểm các nhà nghiên cứu và
một vài khảo sát về các tộc người còn nguyên thủy nhất lúc bấy giờ còn thờ
totem ông đã cho người đọc biết một cách sơ lược nhất về totem, ngược lại với
totem giáo là tuba( cấm kị) thì đến hiện nay vẫn còn tồn tại, nó được ông
nghiên cứu kĩ và sâu hơn so với totem giáo, qua việc tìm hiểu này ông đã rút ra
được những nguyên nhân tận sâu trong tâm lí con người làm hình thành nên tôn
giáo này. Vậy nguyên nhân đó ở đâu? Và tại sao hiện nay totem giáo lại dần mất
đi sẽ là câu hỏi được đặt ra và tìm ra câu trả lời khi nghiên cứu và bàn lại
quan điểm totem và tabu của Freu đồng thời còn dựa trên một số quan điểm của
các nhà tôn giáo học và tâm lí học để so sánh tìm ra điểm tương đồng và điểm
khác biệt để có cái nhìn cụ thể nhất để tìm ra câu trả lời khách quan nhất có
thể.
Totem có nguồn
gốc từ ototeman của dân tộc Ojibwa có nghĩa là “ họ hàng anh chị em của cùng một
người”
Totemism là
hệ thống tin tưởng trong đó con người được cho là có quan hệ họ hàng, hoặc một
quan hệ bí ẩn với một hữu thể - tinh thần, chẳng hạn như là động vật hoặc thực
vật. Thực thể, casc totem, được cho là tương tác với một nhóm người có liên hệ
họ hàng, hoặc một cá nhân, và totem được dùng như huy hiệu hoặc tượng của họ.
Totem được thể hiện dưới những hình thức khác nhau và những loại trong những nội
dung khác nhau và thường được tìm thấy trong số những quần thể dân chúng có nền
kinh tế truyền thống dựa vào săn bắn và hái lượm, hoặc nhấn mạnh trên chăn nuôi
gia súc. Ngoài hiện tượng totem tập thể còn có totem cá nhân.
II. Cơ sở lí thuyết giải thích quá trình hình thành totem
II. Cơ sở lí thuyết giải thích quá trình hình thành totem
2.1.
“ Phức cảm Ơdip”
Lúc đầu quan hệ của trẻ thơ với loài vật có chung nhiều
với con người nguyên thủy. Đứa trẻ còn chưa cho thấy bất kỳ dấu vết của tự hào
nào vốn sau đó chuyển con người văn minh trưởng thành đến lập một đường phân
chia rõ ràng giữa bản chất của chính mình và của tất cả những loài vật khác. Đứa
trẻ không do dự gán cho loài vật sự bình đẳng hoàn toàn, đứa bé có thể cảm thấy
chính nó có liên hệ gần gũi với con vật hơn là với người lơn chắc chắn bí ẩn,
trong sự tự do mà nó nhận biết những nhu cầu của nó.
Freu đã có một cuộc nghiên cứu như sau để cho ra đời
lí thuyết “ phức cảm Ơdip” : “ Phân tích về Phobia của một bé trai năm tuôi mà
người cha của người bệnh đã trao em bé này cho tôi. Đó là một sự sợ hãi loài ngựa
đã là kết quả khiến em bé từ chối không chịu đi trên đường phố. Em bày tỏ sự e
ngại của em rằng con ngựa sẽ đi vào phòng và cắn em. Nó đã chứng tỏ rằng điều
này đã có nghĩa là sự trừng phạt với ước muốn của em ràng con ngựa nên bị ngã
xuống ( chết). Sau những đảm bảo mà đứa bé trút được gánh sợ hãi với cha mình,
nó đã chứng minh rằng em đang đấu tranh chống lại mong muốn có nội dung là sự vắng
mặt ( ra đi hoặc chết) của người cha. Em bé chỉ nghỉ đơn giản rằng em cảm thấy
người cha là đối thủ của mình với những biệt đãi thiên vị của mẹ, vốn là người
mà những ao ước tình dục bắt đầu nảy nở
của em đã được những linh cảm đen tối nhắm tới. Thế nên, em bé đã có thái độ
tiêu biểu của đứa trẻ con phái nam với
cha mẹ của nó mà chúng ta gọi là “mặc cảm Ơdip” trong đó đã cho thấy sự
phức tạp trung ương của những chứng nhiễu loạn nơ-rô nói chung.” Và Freu đã kết
luận : “ nói chung, trong quá trình bé trai cạnh tranh tình cảm yêu mến của mẹ
đối với cha boojcj lộ ra hết không lưu lại chút nào là không thể được, bởi vì
trước hết em phải khắc phục những tình cảm ngưỡng mộ và thân cận được xây dựng
từ bao lâu nay đối với cha. Trong sự mâu thuẫn của loại tình cảm này, để giảm
nhẹ và khắc phục xung đột nội tâm, thế là em bắt đầu tìm kiếm một “ vật thay thế”
người cha để mà trút ra nỗi sợ hãi và
thù địch của mình. Song, tác dụng của sự thay thế này không làm tiêu tan được
xung đột tâm lí, bởi vì nó không phân biệt rạch ròi được hai loại tình cảm yêu
và ghét. Trái lại, loại xung đột này thường được trút lên những vật thay thế” .
với tư tưởng và suy nghĩ của những người nguyên thủy thời xưa mà cụ thể là loài
vượn người, hiểu biết họ hoàn toàn giống như một đứa trẻ thơ, họ chưa có sự hiểu
biết sâu rộng về thế giới mà mọi thứ xung quanh họ như là một ẩn số, tương tự
như một đứa trẻ. Cuộc sống của họ là cuộc sống quần cư, dựa trên hoạt động săn
bắt và hái lượm, trong quần cư cùng sinh sống đó có một người đứng đầu , người
đứng đầu này có mọi quyền lực và sở hữu mọi thứ trong bàn đàn ngay cả các phụ nữ.
Người đứng đầu đó có sức mạnh, sự thông minh và bản lĩnh dẫn đầu, các thành
viên nam còn lại chỉ được phép nghe theo mệnh lệnh và nếu trái lại họ sẽ bị trừng
phạt, đối với những thành viên nam ngoài sự kính sợ, còn có sự căm ghét nhưng
trạng thái căm ghét ẩn giấu bên trong họ và không bọc lộ ra bên ngoài. Các
thành viên nam trong bầy đàn lớn lên tranh giành ngôi vị thủ lãnh, theo quy luật
kẻ mạnh làm thủ lãnh, cuộc tranh chấp diễn ra thủ lãnh đương nhiên nếu thua
trong cuộc chiến hoặc bị trục xuất khỏi bầy đàn, hoặc bị giết.
Đối tượng của totem đa phần là các loài động vật.
Freu chỉ ra rằng cách nhìn của trẻ thơ đối với động vật cũng tương tự như người
nguyên thủy. Trong quan hệ gia đình đứa trẻ (bé trai) luôn có xu hướng gắn tình
cảm với người mẹ, một thứ tình cảm mờ ảo và nó sợ chính cha nó sẽ cướp lấy mẹ
nó, nó chỉ muốn được chiếm hữu riêng, bởi như vừa đề cập ở trên giai đoạn đầu
tiên sơ khai nhất của con người là người vượn,
cuộc sống bầy đàn và người thủ lãnh có thể nói tương tự như vai trò của
một gia đình và vị ví trụ cột của người cha trong gia đình đó. Đứa trẻ yêu thương , kính sợ và cần được cha
che chở , nếu dựa trên quan điểm của Freu ta sẽ có cách nói như sau rằng đứa bé
muốn chiếm riêng người mẹ cho nó, nguyên nhân mà nó muốn chiếm hữu riêng người
mẹ chính là một thứ tình dục mờ ảo của trẻ thơ thứ tình cảm mà chính đứa trẻ
chưa có sự phân định đâu là tình yêu thương đơn thuần và đâu là dựa trên quan hệ
khác giới. Một giả thuyết đưa ra rằng để chiếm được người mẹ các đứa con trai hợp
sức lại chống lại cha nó, khi cuối cùng nó giết chết cha và chiếm đoạt được mẹ,
nó rơi vào tâm lí hối hận trước những việc đã làm nó tạo dựng nên một hình ảnh
khác về người cha bằng cách tưởng nhớ thờ cúng người cha của nó, hoặc lẽ nó tự
an ủi rằng cha nó không chết đi mà ông ấy đi sang một nơi khác- thiên đàng và
hưởng hạnh phúc trên đó. Đây là một trong những cơ sở đầu tiên hình thành nên
tôn giáo. Qua những phân tích này, Freu nhấn mạnh, sự thực nói trên có liên
hệ mật thiết đến quan điểm totem của người nguyên thủy. Chủ yếu biểu hiện ở hai
điểm: đầu tiên là thừa nhận mình có điểm tương đồng hoặc gần gũi với động vật từ
thừa nhận trên sản sinh ra hai loại tình cảm song song là ngưỡng mộ và sợ hãi.
Thứ hai là liên hệ này chí ít chứng minh, động vật trong quan niệm totem của
người nguyên thủy là vật thay thế của hình tượng người cha.
Tuy nhiên, sự chuyển chỗ không có thể làm giảm nhẹ
xung đột bằng cách đưa về một sự phân chia êm thấm giữa những cảm giác thương mến
âu yếm và ác cảm thù địch. Ngược lại xung đột đã được tiếp tục trong sự dẫn chiếu
về đối tượng mà sự chuyển đổi đã được thực hiện và cũng lan truyền tính mâu thuẫn
đến với nó. Không ngờ gì chú bé John đã không chỉ sợ hãi nhưng kính trọng và chú ý với loài ngựa. Ngay
sau khi sự sợ hãi của mình đã được tiết chế nhẹ đi, em đồng hóa chính mình với
con vật đáng sợ, em nhảy vòng quanh như một con ngựa, và bây giờ nó là em là
người đánh người cha. Trong một giai đoạn khác em bé đã không đắn đo để đồng
hóa cha mẹ mình với những loài thú vật lớn khác.
Như vậy có thể thấy rằng đã có sự thay thế người cha
với động vật totem trong công thức phái nam của hệ tư tưởng totem.
2.2 . Bản năng bầy đàn và tâm lí đám đông
Một đám đông người nguyên thủy với một người đàn ông
đầy uy lực giữa đám người bình đẳng với nhau, một bức tranh có sẵn trong tưởng
tượng. tâm lí của đám đông đó biến mất ý thức cá nhân, hướng ý nghĩ và tình
camt theo chiều duy nhất, lĩnh vực tình cảm và vô thức trỗi dậy, khuynh hướng
muốn thực hiện ngay những ý định vừa xuất hiện- tương ứng với sự thoái hóa về đời
sống tinh thần sơ khai có thể gán cho bầy đàn nguyên thủy. Ý chí của từng cá
nhân quá yếu, làm cho cá nhân đó không dám hành động. chỉ có những xung lực tập
thể là được thực hiện, chỉ tồn tại ý chí tập thể. Và ngay từ thời khởi thủy đã có hai dạng tâm
lí :tâm lí của các thành viên của đám đông và tâm lí của người cha, người chỉ huy.
Các cá nhân tạo thành đám đông bị ràng buộc nhưng người cha của bầy nguyên thủy
thì tự do. Hoạt động trí tuệ mạnh mẽ và độc lập ngay cả khi một mình. Nhưng khi
đám đông đó hợp sức lại thì ý chí và hành đồng cá nhân sẽ mang sức ảnh hưởng mạnh
mẽ, như vấn đề đã nói phần trên kẻ lãnh
đạo luôn có nhiều lợi thế, có mọi quyền lực và chiếm trọn các phụ nữ trong bầy
đàn, với nhu cầu tâm sinh lí, những kẻ yếu hơn hợp sức lại chống lại ý kiến cá
nhân bằng hành động tập thể, họ giết người đầu đàn để đáp ứng nhu cầu cho mình,
song khi nhu cầu được thỏa mãn họ sẽ rơi vào cảm giác thống hối, họ tìm cách tự
an ủi bằng cách tôn thờ người đó dựa, chịu lãnh sự bảo hộ của người đó thông
qua mặt tinh thần. Để như một biểu tượng
hỗ trợ tinh thần và cho họ có sức mạnh khi đứng trước đám đông. Bằng việc dựng
lên những hình ảnh đầy huyền bí để bào vệ và hỗ trợ mình, họ lấy hình ảnh huyền
bí đó đề thuyết phục niềm tin đám đông , theo đám đông không hề suy nghĩ , họ
tiếp nhận hoặc vứt bỏ các ý tưởng một cách nhanh chống, không dung thứ tranh luận
và mâu thuẫn. Đám đông bị tê liệt lý trí
bởi những tác động vào nó và sau đó chúng làm cho nó chỉ muốn nhanh chống chuyển
qua hành động. Đám đông tôn sùng một đấng được cho là cao cả, kiếp sợ trước quyền
lực bên trên, tuân thủ một cách mù quán mệnh lệnh . Chính sự sợ hãi, tôn sùng
và tuân giữ mệnh lệnh đã làm cho mô hình totem giáo được được duy trì cho đến
nay. Bởi ở tâm lí đám đông ta còn thấy xuất hiện tính dễ bị tác động và tính nhẹ
dạ của đám đông, với đặc tính dễ bị tác động tính chất này lây lan rất mạnh ở mọi
chỗ có đông người tụ tập vì cơ sở đó mà totem giáo được tạo thành ở nhiều nơi
và còn xuất hiện đến bây giờ ở một số nơi.
III. Vai trò của totem
Ngoài vai trò an ủi, nâng đỡ sức mạnh cho con người
totem còn Totem giúp đỡ trongtrường hợp của đau ốm, và cho bộ lạc những điềm
báo trước vànhững cảnh cáo đề phòng. Sự xuất hiện của động vật totem gần một
căn nhà đã thường được coi như một thông báo về cái chết. Totemđã đến để lấy bà con của nó.
Totem tạo nên một sự ràng buộc đối với các thành
viên, tạo nên những trật tự cơ bản nhất thuở ban đầu như . Đồng thời cũng xác định
sự xếp đặt bộ lạc thông qua tên gọi các con vật để phân biệt giữa các bộ lạc.
Sự sùng kính tôn thờ con vật tự nó thể hiện thái độ đối
với con vật totem hầu như ngoài những nghi lễ và lễ hội đặc biệt. Totem làm con
người tăng cường sức mạnh thông qua việc làm bắt chước con vật đó hoặc ăn thịt
nó để có sực mạnh giống nó. Dựa trên nghiên cứu của Smith, Freu đã vận dụng tâm
lí học đã giải thích “ bữa ăn totem”. Cụ thể theo tài liêu Smith thì bữa ăn totem
bao gồm các hoạt động : thực hiện một số
nghi thức với sự có mặt của mọi thành
viên trong bộ lạc để tiến hành nghi thức giết vật totem, thứ hai chia nhau ăn
thịt động vật totem có ý nghĩa rằng toàn thể thành viên bộ lạc qua đó mà có được
tính thần thánh của đối tuongj totem, tăng thêm cái cảm giác mình giống như đối
tượng totem, thứ ba nghi thức biểu thị sự thương nhớ là có tính cưỡng chế, phản
ánh một loại tâm lí sợ hãi- có thể bị báo thù cho nên mục đích của nó là giải
thoát khỏi trách nhiệm tội lỗi là đã giết động vật totem, cuối cùng , lễ mừng
cuồng nhiệt thì biểu hiệ một loại cho phép bản năng là đem hành vi hung bạo
trái với điều cấm kỵ hợp pháp hóa (bởi giết con vật totem là một điều cấm kị),
thần thánh hóa, cho nên nói bạo hành là bản chất của lễ mừng, sự cuống nhiệt bộc
lộ “ khoái cảm sau khi phá bỏ được điều cấm kị”.
Như vậy có thể thấy rằng totem có vai trò quan trọng
về mặt tinh thần của con người là một mảng tạo nên sức mạnh tinh thần cho con
người, thông qua các hoạt động nghi lễ và cúng bái nó tạo cho con người những
trạng thái tâm lí cụ thể... song đa phần mang tính tích cực.
IV. KẾT LUẬN
Dựa trên các quan điểm lí thuyết về tâm lí học và phân tâm
học ta có thể thấy rằng việc hình thành một tôn giáo là hội tụ của rất nhiều
nguyên nhân trong đó nguyên nhân quan trọng và quyết định nhất có thể nói đến
là tâm lí con người. Tôn giáo hình thành dưới mái hiên tâm lí và ngược lại nó
mang lại cho con người cảm giác an tâm, sự an ủi về mặt tình thần,.... Cụ thể ở totem giáo một hình thức tôn giáo sơ
khai nhất của xã hội loài người cũng dựa trên cơ sở tâm lí đó, dù con người sơ khai không còn nữa nhưng tâm
lý con người sơ khai vẫn còn đó, nên tôn giáo như thế vẫn còn và có biến tấu hoặc
ẩn vào một số hình thức tôn giáo mới hiện nay. Vai trò của totem là đáp ứng nhu
cầu tâm lí của con người .
Tài liệu tham khảo
1.
Totem và Tabu –sigmund Freu
2.
Tâm lí học đám đông- Gustave Le Bon , Nxb. Tri thức
3.
Tôn giáo học là gì? – Chương Chí Cương,
Nxb. Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét